Chia sẻ BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG LOGISTICS ASEAN NĂM 2019

Chaien

Administrator
Thành viên BQT
Bài viết
1,008
Reaction score
939
MỤC LỤC

1. Những điểm nhấn, xu hướng chính trên thị trường logistics ASEAN năm 2019

1.1. Tình hình chung.

1.2. Công nghệ mới và kinh tế số thúc đẩy các kết nối logistics trong ASEAN..

1.3. Thị trường logistics phục vụ chuỗi cung ứng lạnh ngày càng sôi động.

1.4. Logistics xanh trở thành xu hướng tất yếu tại ASEAN..

2. Thị trường logistics của một số nước trong khu vực trong năm 2019.

2.1. Singapore.

2.2. Thái Lan:.

2.3. Malaysia:.

2.4. Philippines.

2.5. Indonesia.

2.6. Myanmar.

2.7. Campuchia.

2.8. Lào.

NỘI DUNG BÁO CÁO


1. Những điểm nhấn, xu hướng chính trên thị trường logistics ASEAN năm 2019

1.1. Tình hình chung

Trong thập kỷ qua, ASEAN đã nổi lên như một trong những khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới (trung bình 5%/năm, kể cả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu). Chiếm 10% dân số thế giới, ASEAN là thị trường lớn thứ ba châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ. Với thị trường tiêu dùng lớn tạo tiềm năng đáng kể cho tăng trưởng, ASEAN đang trở nên hấp dẫn hơn để là lựa chọn đầu tư cả các doanh nghiệp logistics nội địa và quốc tế trong giai đoạn 2020-2025.

Tuy nhiên, mặt bằng phát triển logistics khác nhau giữa các nước ASEAN. Trong khi Singapore vẫn luôn là điểm đến tốt nhất trong ASEAN cho các nhà đầu tư logistics thì các quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông, như Việt Nam đamg phải nghiên cứu nhiều cách thức để thúc đẩy ngành công nghiệp logistic. Theo công ty nghiên cứu thị trường SpirEresearch tiêu dùng tăng nhanh, tăng sản lượng nông nghiệp và cải thiện xây dựng cơ sở hạ tầng là những yếu tố thúc đẩy ngành logistics của Việt Nam trong những năm gần đây. Các thị trường logistics năng động khác bao gồm Indonesia, với lĩnh vực logistics của họ dự kiến sẽ tăng tới 16% mỗi năm vào năm 2020. Philippines cũng đang chứng kiến sự tăng trưởng tương tự, do sự bùng nổ nhanh chóng của dịch vụ logistics điện tử, dịch vụ logistics bên thức 3 (3PL) và chuyển phát nhanh trong nước.

Trong số các quốc gia thành viên, Singapore sẽ tiếp tục dẫn đầu logistics trong khu vực ASEAN, nhờ khả năng tận dụng lợi thế về địa lý và dẫn đầu về ứng dụng công nghệ hiện đại trên thị trường vận tải hàng hóa và hậu cần. Những công ty lớn của nước này đã đóng góp phần lớn vào việc phát triển cơ sở hạ tầng kho bãi, với xu hướng hiện đại hóa hệ thống kho bãi tại Singapore và nhiều nước khác trong ASEAN, trong đó có Việt Nam. Singapore cũng sẽ tiếp tục là nơi tập trung của các công ty quốc tế và các sáng kiến được thực hiện bởi chính phủ, như Adapt and Grow, Go Digital, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để cải thiện năng lực logistics khu vực.

upload_2020-1-13_14-14-49.png


Giữa các nước thành viên ASEAN có sự chênh lệch lớn về sự thịnh vượng, địa lý, nhân khẩu học và phát triển cơ sở hạ tầng. Do những đặc điểm đa dạng hóa này, sự di chuyển của hàng hóa và dịch vụ trên khắp các nước ASEAN đòi hỏi sự phát triển vận tải đa phương thức.

Gần đây, các chính phủ ASEAN đã liên tục cung cấp các ưu đãi để thúc đẩy logistics nói chung và hoạt động giao nhận trong khu vực, trong đó có các nỗ cải thiện quy hoạch cơ sở hạ tầng và xây dựng đường bộ. Trong khi Malaysia tìm cách tăng cường công nghệ, vốn nhân lực và thúc đẩy nhu cầu vận chuyển hàng hóa, Indonesia đơn giản hóa các quy định logistics để khuyến khích các doanh nghiệp đắm mình vào thương mại điện tử. Chính phủ Thái Lan đặt mục tiêu mở rộng về vận tải đường sắt và quy hoạch cơ sở hạ tầng xuyên biên giới. Singapore, một quốc gia phát triển hơn, với nền tảng quản lý logistics vững mạnh, cố gắng củng cố vị thế là một trung tâm logistics đẳng cấp quốc tế. Tuy nhiên, các nước kém phát triển hơn, như Lào và Myanmar, vẫn còn rất nhiều việc phải làm để cải thiện lĩnh vực logistics của họ.

Nhìn chung, với các nỗ lực chính sách và tiềm năng phát triển trong thời gian, cũng như tính mở ngày càng cao của các nền kinh tế trong khu vực, thị trường logistics và phân phối ASEAN được ước tính sẽ chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn dự báo, do nhu cầu mở rộng lĩnh vực thương mại điện tử. Các yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường là nhu cầu cao từ dịch vụ hậu cần dặm cuối và cải thiện nhanh chóng cơ sở hạ tầng giao thông.

Tại nước thành viên khác của ASEAN, chính quyền địa phương đã hỗ trợ cho sự phát triển cơ sở hạ tầng của khu vực. Kế hoạch tổng thể về hậu cần và thuận lợi hóa thương mại, các thành phố thông minh do ủy ban ASEAN lên kế hoạch được kỳ vọng sẽ thúc đẩy thị trường phát triển logistics khu vực phát triển nhanh chóng.



1.2. Công nghệ mới và kinh tế số thúc đẩy các kết nối logistics trong ASEAN

Với hơn 330 triệu người dùng internet trong khu vực ASEAN, thương mại điện tử trong khu vực được ước tính sẽ trở thành một ngành công nghiệp lớn trong những năm tới. Ước tính nền kinh tế internet ASEAN đạt 72 tỷ USD về tổng giá trị hàng hóa trong năm 2018. Khoảng 3,8 triệu người dùng mới được ước tính sẽ mua sắm trực tuyến mỗi tháng trong khu vực, đưa ASEAN trở thành thị trường internet tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Ngoài ra, dân số trẻ ngày càng mở rộng, tăng thu nhập khả dụng (tất cả sáu quốc gia lớn trong khu vực dự kiến sẽ vượt ngưỡng 3.000 USD GDP bình quân đầu người ước tính) và hệ thống thanh toán trực tuyến khả dụng hơn thúc đẩy kinh tế internet, ước tính sẽ tăng lên 240 tỷ USD vào năm 2025.

Cải thiện kết nối kỹ thuật số và đầu tư vào không gian kỹ thuật số của ASEAN nhằm hỗ trợ lượng người tiêu dùng đang tăng trưởng nhanh trong khu vực cũng có thể tạo nền tảng vững chắc cho tiềm năng tăng trưởng chuỗi cung ứng của ASEAN đồng thời tạo sức hấp dẫn thu hút các công ty đa quốc gia và các nhà đầu tư nước ngoài.

Kế hoạch tổng thể cho Kết nối ASEAN đến năm 2025 cho thấy, công nghệ mới và kinh tế số có thể đem lại tác động về lợi ích kinh tế gia tăng cho ASEAN vào khoảng 220-650 tỷ USD cho tới năm 2030.

Các thành viên ASEAN đã ký kết Hiệp định Thương mại điện tử ASEAN vào tháng 11/2018 và giờ là lúc chuyển đổi hiệp định này thành những hành động cụ thể. Trong đó, các vấn đề cần tập trung là: Phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử tầm khu vực; Hỗ trợ sự dịch chuyển của các doanh nghiệp giữa các thị trường; Hợp tác trong vấn đề an ninh mạng nhằm tạo niềm tin cho người tiêu dùng và các Chính phủ.

Sự phát triển của thương mại điện tử gây áp lực lên ngành kho bãi và logistics đang phát triển trong khu vực. Thương mại điện tử yêu cầu giao hàng nhanh chóng, cùng với năng lực quản lý kho vượt trội so với thương mại truyền thống. Một số công ty kho bãi lớn tại ASEAN, như Yusen logistics, CEVA và CWT Logistics, đã liên tục phát triển cơ sở hạ tầng kho của họ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của logistics cho thương mại điện tử.

Thị trường kho bãi và phân phối trong khu vực ASEAN bị phân mảnh với một số lượng lớn công ty đang cố gắng giành lấy một phần đáng kể của thị trường đang phát triển. Một số quốc gia trong khu vực ASEAN, như Indonesia và Philippines, đang tăng trưởng vừa phải với sự hiện diện của số lượng lớn công ty địa phương và một số công ty chính. Tuy nhiên, Singapore, Việt Nam và Thái Lan là những thị trường cạnh tranh cao, với sự hiện diện của số lượng lớn công ty quốc tế.


1.3. Thị trường logistics phục vụ chuỗi cung ứng lạnh ngày càng sôi động

Với nhiều quốc gia thành viên có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu nông sản, thực phẩm chế biến và một quốc gia thành viên là trung tâm trung chuyển hàng hóa trong khu vực là Singapore, ngành công nghiệp chuỗi lạnh ở các nước Đông Nam Á dự kiến sẽ chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể trong những năm tới.

Khu vực ASEAN có hai đối tác thương mại lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, cũng góp phần tạo ra chuỗi cung ứng hàng hóa lớn, kéo dài nói chung và đối với ngành nông sản, thực phẩm nói riêng. Sự gia tăng thương mại kéo theo sự phát triển của thị trường logistics chuỗi lạnh có thể thấy rất rõ ở Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Singapore trong những năm gần đây. Ngành công nghiệp chuỗi lạnh đang bị coi là chìa khóa quan trọng hạn chế sự lãng phí thực phẩm và thúc đẩy cho ngành công nghiệp kho lạnh.

Dân số đô thị ngày càng tăng và nhận thức của người tiêu dùng thay đổi thúc đẩy nhu cầu lưu trữ và vận chuyển hàng lạnh. Thị trường cho các sản phẩm đông lạnh đang phát triển nhanh chóng ở Đông Nam Á. Tiêu thụ dự kiến sẽ đạt hơn 20 tỷ USD vào năm 2020 giữa các quốc gia lớn nhất trong khu vực.

Hải sản là một nhóm hàng hóa quan trọng ở nhiều nước ASEAN và đóng vai trò là nguồn cung cấp ngoại tệ và thực phẩm quan trọng cho tất cả các quốc gia này. Hơn nữa, nhu cầu về hải sản ngày càng tăng, nhất là khi người tiêu dùng trên toàn thế giới nhận ra giá trị dinh dưỡng của loại thực phẩm này. Tuy nhiên chuỗi lạnh cho hải sản trong khu vực ASEAN có nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn là thiếu chuỗi cung ứng tích hợp từ nông trại đến bàn ăn, trong đó mỗi người chơi trong ngành tự coi mình là một thực thể riêng biệt và không có kế hoạch áp đặt các tiêu chuẩn chuỗi lạnh vào giai đoạn tiếp theo trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, bất kỳ sự gián đoạn nào trong chuỗi lạnh sẽ có tác động tích lũy đến chất lượng cuối cùng của hải sản.

Thị trường logistics chuỗi lạnh của khu vực ASEAN bị phân mảnh trong tự nhiên với sự kết hợp của những công ty toàn cầu và địa phương. Thị trường vẫn được phục vụ bởi những công ty địa phương vừa và nhỏ với đội tàu nhỏ và không gian lưu trữ. Một số quốc gia, như Singapore, có sự hiện diện mạnh mẽ của những công ty toàn cầu, như DHL và Nippon Express.

Ngoài ra, các công ty toàn cầu đang đầu tư vào thị trường và mua lại các công ty địa phương để tăng dấu ấn của họ trong khu vực. Chẳng hạn, TASco, một công ty con của Yusen Logistics, đã mua lại hai nhà cung cấp dịch vụ chuỗi lạnh lớn ở Malaysia. Để cạnh tranh với những công ty toàn cầu, các doanh nghiệp địa phương cũng đang đầu tư vào cơ sở hạ tầng chuỗi lạnh để đáp ứng các tiêu chuẩn.

Hơn nữa, các công ty logistics tại Nhật Bản tăng cường các hoạt động của họ trong ASEAN bằng cách thiết lập các cơ sở giao thông đường bộ ở các nước ASEAN cho mỗi quốc gia trong các ngành sản xuất và phân phối, từ đó thúc đẩy xây dựng chuỗi cung ứng. Các công ty cũng tham gia vào việc phát triển chuỗi lạnh và cũng tích cực đầu tư vào logistics liên quan đến trái cây và rau quả, hoa, mỹ phẩm và hàng tiêu dùng.

1.4. Logistics xanh trở thành xu hướng tất yếu tại ASEAN

Phát triển kinh tế gắn liền với các hoạt động cân bằng sinh thái môi trường đang trở thành xu hướng tất yếu và là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển bền vững. Chính vì thế, các nỗ lực phát triển vận tải và logistics làm giảm phát thải ra môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trên thế giới nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng.

Đặc biệt, trong những năm gần đây, kinh tế - xã hội các quốc gia Tiểu vùng sông Mekong (GMS) phát triển rất mạnh mẽ, thu hút đầu tư nước ngoài, giao thông vận tải cũng được đầu tư phát triển. Việt Nam được đánh giá là quốc gia phát triển nhanh nhất trong khu vực GMS với thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, con người,...

Song song với sự phát triển, chúng ta đang đối diện với một thực tế là các hoạt động kinh tế trong đó có các hoạt động vận tải và logistics đang là những tác nhân gây ra một loạt các vấn đề bao gồm nóng lên toàn cầu, suy thoái môi trường và tăng khí thải nhà kính.

Vận tải hàng hóa và Logistics bền vững khu vực Mekong là dự án với mục tiêu nhằm tăng tính bền vững trong vận tải và logitics thông qua các biện pháp sử dụng nhiên liệu hiệu quả và an toàn cho ít nhất 500 doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) tại 5 quốc gia Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan. Thị trường logistics khu vực GMS được tổ chức cục bộ và manh mún, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng phổ biến hệ thống giao thông cũ kỹ dẫn đến nhu cầu sử dụng nhiên liệu cao, tăng phát thải khí CO2 ra môi trường.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các nhà tài chính lớn hợp tác để thúc đẩy dự án hơn 1 tỷ đô la đầu tư cơ sở hạ tầng xanh trên khắp Đông Nam Á, theo đó cung cấp các khoản vay và hỗ trợ kỹ thuật cho các dự án n trong các lĩnh vực như giao thông bền vững và năng lượng sạch.

Theo Chủ tịch của ADB, Takehiko Nakao, thông qua tổ chức tài chính xanh ASEAN, ADB sẽ hỗ trợ các chính phủ ASEAN phát triển các dự án cơ sở hạ tầng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu. ADB sẽ huy động tổng cộng 1 tỷ đô la, bao gồm 75 triệu đô la từ Quỹ cơ sở hạ tầng ASEAN (AIF), 300 triệu đô la từ ADB, 336 triệu đô la từ KfW, 150 triệu euro từ Ngân hàng đầu tư châu Âu và 150 triệu euro từ Agence Francaise de Developpement .

Đây là một phần của chương trình Cửa sổ cơ sở hạ tầng toàn diện và xanh lá cây mới thuộc AlF, một sáng kiến tài chính khu vực được thành lập bởi các chính phủ ASEAN và ADB vào năm 2011. Kể từ đó, AlF đã cam kết 520 triệu đô la cho các dự án cơ sở hạ tầng, giao thông, nước và đô thị.

2. Thị trường logistics của một số nước trong khu vực trong năm 2019

2.1. Singapore

Singapore là thị trường logistics phát triển nhất trong khu vực ASEAN, đứng thứ 7 trong bảng xếp hạng chỉ số LPI do Ngân hàng thế giới tính toán và công bố năm 2018.

Mặc dù có nền tảng vượt trội so với các nước khác trong khu vực, tuy nhiên, ngành logistics của Singapore cũng đang phải đối mặt với những áp lực cạnh tranh lớn và do đó, đang đẩy mạnh áp dụng công nghệ, coi đó là chìa khóa để giữ vững vị thế tiên phong về logistics trong khu vực.

Đặc biệt, Singapore đang triển khai kế hoạch ba năm để các bên liên quan tiến hành số hóa các quy trình của họ và kết nối với nhau, tạo ra một nền tảng kỹ thuật số liên thông trong ngành logistics.

Lộ trình được phát triển bởi Hiệp hội Logistics Singapore (SLA), được Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp Koh Poh Koon công bố Diễn đàn Logistics Singapore 2018. Theo kế hoạch này, các nền tảng sẽ được thành lập để giới thiệu công nghệ tiên tiến và các ứng dụng kỹ thuật số trong logistics. Kế hoạch này cũng bao gồm việc thí điểm các dự án bằng chứng thông qua Trung tâm Quản lý chuỗi cung ứng đổi mới @Republic Polytechnic (COI-SCM @ RP) và các đối tác khác, cũng như thúc đẩy việc áp dụng tự động hóa.

Bên cạnh việc áp dụng công nghệ, lộ trình sẽ tập trung vào các lĩnh vực như thu hút nhân tài, tăng cường hợp tác giữa các công ty, quốc tế hóa và cung cấp hỗ trợ và tư vấn cho các công ty.

Dựa trên sự chuyển đổi kỹ thuật số của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, Công nghiệp 4.0 với Internet of Things (IoT), trí tuệ nhân tạo và vật lý không gian sẽ tạo ra những bước đột phá lớn trong lĩnh vực logistics trên thế giới, mà tiên phong là các nước có nền công nghệ phát triển như Singapore.

Một trong những công cụ thúc đẩy đổi mới phổ biến nhất trong lĩnh vực kho bãi, giao nhận phổ biến nhất là IoT, và cốt lõi của nó nằm ở việc tối ưu hóa các nguồn lực. Đó là một phổ rộng của công nghệ nhưng cuối cùng, IoT cải thiện hiệu quả hoạt động của kho, tăng tính an toàn và bảo mật và nâng cao các tiện ích cho khách hàng.

Kết nối mạng ưu việt của hệ thống logistics cảng biển Singapore dựa trên các thỏa thuận liên doanh với các hãng tàu hàng đầu toàn cầu để vận hành các ga/cảng, bến bãi.

MSC, COSCO, CMA CGM, ONE và PIL có liên doanh với PSA Singapore để vận hành các nhà ga ở đó. Những thỏa thuận này sẽ quyết định phần lớn sự lựa chọn của các hãng vận tải về các trung tâm trung chuyển, bổ sung thêm mạng lưới dịch vụ cho cảng. Ví dụ, vào tháng 12 năm 2017, CMA CGM đã công bố mạng lưới dịch vụ mới, theo đó Singapore nổi bật trên 20 dịch vụ, so với 11 dịch vụ của Port Klang và 3 dịch vụ của PTP. Trong khi đó, các cảng của Malaysia thiếu các liên doanh để vận hành các bến với các công ty vận tải toàn cầu. Đây là lý do giúp Singapore vẫn tiếp tục giữ được vị trí đứng đầu về cảng biển ở Đông Nam Á, mặc dù chi phí vận hành tại quốc đảo này ngày càng tăng.

Thị trường bán lẻ đang thay đổi nhanh chóng trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, với xu hướng phát triển nhanh chóng trong bán lẻ trực tuyến. Theo Statista, đến năm 2022, số lượng người mua sắm trực tuyến tại Singapore dự kiến sẽ tăng lên tới 4,4 triệu người. Đến năm 2025, thị trường thương mại điện tử Singapore, dự kiến sẽ trị giá 5,4 tỷ USD, dựa trên ước tính của Temasek và Google.

Sự phát triển của thương mại điện tử đã củng cố vai trò trung tâm của khách hàng trong thị trường chuyển phát bưu kiện định cũng như định hướng kinh doanh của các công ty trong ngành. Các công ty thương mại điện tử nhận ra rằng các dịch vụ giao hàng theo các dặm có tác động đáng kể đến nhận thức của khách hàng, điều này ảnh hưởng đến thành công của họ trên thị trường, dẫn đến nhu cầu tạo ra sự khác biệt.

Người tiêu dùng đang ngày càng chuyển sang mua sắm trực tuyến để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của họ. Khi kết nối internet trở nên phổ biến, tạo ra cơ sở cho sự so sánh, lựa chọn giữa các nhà cung cấp, người tiêu dùng đòi hỏi cao hơn về thời gian giao hàng cũng như tính chính xác và các dịch vụ kèm theo. Theo một nghiên cứu của McKinsey cho thấy 20% đến 25% người tiêu dùng sẽ trả phí bảo hiểm cho việc giao hàng trong cùng ngày. Tuy nhiên, do những hạn chế trong phương thức và công nghệ giao hàng, không ít trường hợp người tiêu dùng vẫn phải chờ vài ngày hoặc vài tuần trước khi nhận được đơn đặt hàng.

Ngoài ra, mặc dù nhu cầu giao hàng trong ngày của khách hàng ngày càng tăng, hơn 50% người tiêu dùng chọn tùy chọn giao hàng chỉ dựa trên giá trong khi 20% khác thích tùy chọn có sẵn rẻ nhất. Điều này nhấn mạnh rằng trong khi mong muốn về sự thuận tiện đang tăng lên, phần lớn người tiêu dùng vẫn nhạy cảm về giá.

Sự đa dạng của các lựa chọn giao hàng, chất lượng dịch vụ giao hàng và khả năng chi trả đã trở thành tiêu chí quyết định chính cho khách hàng. Công ty thương mại điện tử cần tìm cách cung cấp trải nghiệm khách hàng tốt hơn và duy trì tính cạnh tranh, chẳng hạn như cung cấp các tùy chọn giao hàng thay thế, cải thiện thời gian giao hàng và vận hành với chi phí thấp hơn.

Thách thức đối với công ty logistics là cung cấp các mức dịch vụ phù hợp để bổ sung cho sự bùng nổ thương mại điện tử. Vô số các công ty khởi nghiệp đã mọc lên trong không gian giao hàng ở Singapore cuối cùng trong bối cảnh chính phủ đẩy sự thay đổi, nhưng vấn đề giao hàng bị bỏ lỡ vẫn còn phổ biến.

Theo Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB) giao hàng dặm cuối tại Singapore hiện là khâu có hiệu quả thấp nhất của chuỗi logistics, do hai vấn đề chính: giao hàng không hợp nhất và tỷ lệ thất bại giao hàng cao.

Việc thiếu sự phối hợp giao hàng giữa các nhà bán lẻ có nghĩa là khách hàng phải chấp nhận nhiều lần giao hàng / giao hàng lại, hoặc phải đối mặt với thời gian chờ đợi đáng kể để bưu kiện của họ đến. Thứ hai, tỷ lệ thất bại trong giao hàng cao dẫn đến chi phí bổ sung cho các công ty.

Thị trường bán lẻ đang thay đổi nhanh chóng trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, với xu hướng phát triển nhanh chóng trong bán lẻ trực tuyến, tạo ra những thay đổi lớn trong thị trường giao hàng dặm cuối tại Singapore.

Theo Statista, đến năm 2022, số lượng người mua sắm trực tuyến tại Singapore dự kiến sẽ tăng lên tới 4,4 triệu người. Đến năm 2025, thị trường thương mại điện tử Singapore, dự kiến sẽ trị giá 5,4 tỷ USD, dựa trên ước tính của Temasek và Google.

Sự phát triển của thương mại điện tử đã củng cố vai trò trung tâm của khách hàng trong thị trường chuyển phát bưu kiện định cũng như định hướng kinh doanh của các công ty trong ngành. Các công ty thương mại điện tử nhận ra rằng các dịch vụ giao hàng theo các dặm có tác động đáng kể đến nhận thức của khách hàng, điều này ảnh hưởng đến thành công của họ trên thị trường, dẫn đến nhu cầu tạo ra sự khác biệt.

Người tiêu dùng đang ngày càng chuyển sang mua sắm trực tuyến để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của họ. Khi kết nối internet trở nên phổ biến, tạo ra cơ sở cho sự so sánh, lựa chọn giữa các nhà cung cấp, người tiêu dùng đòi hỏi cao hơn về thời gian giao hàng cũng như tính chính xác và các dịch vụ kèm theo. Theo một nghiên cứu của McKinsey cho thấy 20% đến 25% người tiêu dùng sẽ trả phí bảo hiểm cho việc giao hàng trong cùng ngày. Tuy nhiên, do những hạn chế trong phương thức và công nghệ giao hàng, không ít trường hợp người tiêu dùng vẫn phải chờ vài ngày hoặc vài tuần trước khi nhận được đơn đặt hàng.

Ngoài ra, mặc dù nhu cầu giao hàng trong ngày của khách hàng ngày càng tăng, hơn 50% người tiêu dùng chọn tùy chọn giao hàng chỉ dựa trên giá trong khi 20% khác thích tùy chọn có sẵn rẻ nhất. Điều này nhấn mạnh rằng trong khi mong muốn về sự thuận tiện đang tăng lên, phần lớn người tiêu dùng vẫn nhạy cảm về giá.

Sự đa dạng của các lựa chọn giao hàng, chất lượng dịch vụ giao hàng và khả năng chi trả đã trở thành tiêu chí quyết định chính cho khách hàng. Công ty thương mại điện tử cần tìm cách cung cấp trải nghiệm khách hàng tốt hơn và duy trì tính cạnh tranh, chẳng hạn như cung cấp các tùy chọn giao hàng thay thế, cải thiện thời gian giao hàng và vận hành với chi phí thấp hơn.

Thách thức đối với công ty logistics là cung cấp các mức dịch vụ phù hợp để bổ sung cho sự bùng nổ thương mại điện tử. Vô số các công ty khởi nghiệp đã mọc lên trong không gian giao hàng ở Singapore cuối cùng trong bối cảnh chính phủ đẩy sự thay đổi, nhưng vấn đề giao hàng bị bỏ lỡ vẫn còn phổ biến.

Theo Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB) giao hàng dặm cuối tại Singapore hiện là khâu có hiệu quả thấp nhất của chuỗi logistics, do hai vấn đề chính: giao hàng không hợp nhất và tỷ lệ thất bại giao hàng cao.

Việc thiếu sự phối hợp giao hàng giữa các nhà bán lẻ có nghĩa là khách hàng phải chấp nhận nhiều lần giao hàng / giao hàng lại, hoặc phải đối mặt với thời gian chờ đợi đáng kể để bưu kiện của họ đến. Thứ hai, tỷ lệ thất bại trong giao hàng cao dẫn đến chi phí bổ sung cho các công ty.

2.2. Thái Lan:

Hiệu suất logistics của Thái Lan đã cải thiện đáng kể trong năm 2018, sau khi đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng giao thông và cải cách pháp lý có liên quan. Đây là sự đón đầu kịp thời vì thương mại điện tử và logistics ô tô đang ngày càng thúc đẩy sự tăng trưởng đáng kể ở nước này bên cạnh những lĩnh vực sản xuất có thế mạnh như ổ cứng máy tính.

Nhờ đó, Thái Lan hiện đứng ở vị trí thứ 32 năm 2018 từ thứ 45 năm 2016, chỉ đứng sau Singapore trong ASEAN, vượt qua Malaysia và đứng thứ bảy ở châu Á, theo Chỉ số Hiệu suất Logistics Logistics của Ngân hàng Thế giới 2018.

Theo một báo cáo nghiên cứu mới của ResearchAndMmarket.com, các yếu tố chính giúp Thái Lan đi lên trong bảng xếp hạng là sự đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng giao thông theo Kế hoạch Phát triển Kinh tế và Xã hội lần thứ 12.

Theo kế hoạch kinh tế của mình, chính phủ Thái Lan đặt mục tiêu cắt giảm chi phí logistics của nước này xuống còn 12% GDP vào năm 2021 từ mức 14% vào năm 2016 khi Kế hoạch năm năm lần thứ 11 (2012-2016) kết thúc.

Kế hoạch lần thứ 12 (2017-2021) đặt ra mục tiêu không chỉ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở các thành phố lớn và thị trấn biên giới, mà còn cải thiện kết nối với các nước láng giềng.

Chính phủ Thái Lan đang đặt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng thông qua các chương trình khác nhau bao gồm Thái Lan 4.0, trong đó đưa ra một mô hình kinh tế mới cho đất nước. Mục đích là thúc đẩy nước này lên vị trí cao hơn trong nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu.

Thị trường logistics ở Thái Lan khá phân tán với sự kết hợp của các công ty toàn cầu và địa phương. DHL là công ty dẫn đầu thị trường trong thị trường logistics Thái Lan, với chỗ đứng về vận tải hàng không và đường biển, cùng với công ty 3PL. Các công ty logistics lớn tại Thái Lan như CEVA, DB Schenker, Nippon Express, Expeditor, Yusen và FedEx đầu năm 2019 đều thể hiện sự lạc quan vào triển vọng thị trường này. Ngoài ra, các công ty logistics Nhật Bản đang có kế hoạch mở rộng dịch vụ của họ trên thị trường Thái Lan do các hoạt động thương mại và công nghiệp gia tăng.

Thái Lan là một trong sáu quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông đang cố gắng tăng cường liên kết giao thông giữa các quốc gia thành viên khác, dự kiến sẽ cải thiện kết nối giao thông xuyên biên giới.

Xét về tiềm lực kinh tế và độ mở của nền kinh tế nói chung, ngành logistics nói riêng, lợi thế này giúp Thái Lan có khả năng phục hồi trước những cú sốc kinh tế toàn cầu tiêu cực do tài chính bên ngoài mạnh mẽ, hỗ trợ rộng rãi cho sự tăng trưởng liên tục trong ngành vận tải hàng hóa trong trung hạn.

Tất cả các phương thức vận chuyển hàng hóa ở Thái Lan sẽ có sự tăng trưởng tích cực trong cả ngắn hạn và trung hạn, với sự vượt trội về đường sắt so với các nước ASEAN khác trong giai đoạn 2019 -2023.

Tuy nhiên, các công ty logistics ở Thái Lan chủ yếu có quy mô nhỏ, phần lớn là các công ty vận tải bằng xe tải chuyên chở các sản phẩm từ địa điểm này đến địa điểm khác.

Ngành công nghiệp chuyển phát nhanh ở Thái Lan có tính tập trung cao nhưng có xu hướng trở nên cạnh tranh hơn

Trong chuyển phát nhanh quốc tế, Kerry Express đã trở thành công ty dẫn đầu thị trường tại Thái Lan, tiếp theo là CJ Express, DHL Express và các công ty khác. Trong khi đó, chuyển phát nhanh nội địa hiện do Thailand Post (Bưu điện Thái Lan) chiếm thị phần chính.

Phân khúc chuyển phát nhanh quốc tế chiếm lĩnh thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh Thái Lan với doanh thu lớn trong năm 2017. Các công ty chuyển phát nhanh quốc tế hoạt động tại Thái Lan tiên phong trong đầu tư vào công nghệ hiện đại để đáp ứng nhu cầu giao hàng ngày càng tăng thông qua thương mại điện tử. Dịch vụ chuyển phát nhanh nội địa ở Thái Lan cũng phát triển nhanh chóng do nhu cầu nội bộ ngày càng tăng ở nước này.

Dịch vụ logistics đường bộ chiếm ưu thế trên thị trường logistics của Thái Lan nhờ mạng lưới đường bộ ưu việt của nước này và địa hình đồng bằng bằng phẳng, thuận tiện cho việc đi lại.

Tầm nhìn Thái Lan 4.0 hứa hẹn sẽ là một động lực to lớn cho nền kinh tế biến nền kinh tế Thái Lan thành một doanh nghiệp thúc đẩy đổi mới. Điều này sẽ không chỉ thúc đẩy nhu cầu về máy móc thông minh và kết nối tốt hơn mà còn mở rộng thị trường thương mại điện tử và logistics điện tử ở Thái Lan.

Thailand Post đã công bố một loạt các sáng kiến hướng tới Bưu điện Thái Lan 4.0, theo sát chương trình Thái Lan 4.0 của Chính phủ, gồm việc áp dụng công nghệ và đổi mới vào tất cả các quy trình trong hệ thống, trong đó có khâu gửi, phân loại, chuyển tiếp và phân phối nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như từng bước hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số.

Lộ trình sẽ tập trung vào việc hiện đại hóa các tiêu chuẩn bưu chính và đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng trong thời đại kỹ thuật số. Như vậy, Thailand Post sẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước bằng cách tận dụng thế mạnh của mạng bưu chính.

Thailand Post sẽ phát triển hệ sinh thái kinh doanh bưu chính và chuyển phát của mình để trở thành trung tâm logistics (logistic) cho dự án Hành lang Kinh tế Phía Đông (EEC) tại tỉnh Chonburi vào năm 2019 và tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không.

Thailand Post đang xem xét ba lĩnh vực để thúc đẩy tăng trưởng thương mại điện tử nội địa Thứ nhất, là lên kế hoạch tăng cường năng lực thương mại điện tử bằng cách phát triển nền tảng và chợ điện tử thông qua cổng thông tin thailandpostmart.com, dự kiến sẽ là một thị trường quốc gia. Một lĩnh vực nữa là e-logistics, nơi Thailand Post sẽ phát triển các kênh phân phối cho các khách hàng TMĐT. Điều này bao gồm các giải pháp thực hiện C2C (từ khách hàng đến khách hàng) và các dịch vụ trả hàng tại các địa điểm thuận tiện do khách hàng lựa chọn.

Lĩnh vực thứ ba là thanh toán điện tử. Thailand Post sẽ phát triển một kênh thanh toán mới để hỗ trợ sử dụng ví điện tử.

Thị trường logistics thương mại điện tử Thái Lan tạo ra doanh thu đáng kể trong những năm gần đây do Thái Lan ngày càng tăng khả năng truy cập internet và điện thoại thông minh cùng với xu hướng mua sắm trực tuyến đang nổi lên.

Thị trường chủ yếu được chi phối bởi các nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PLs) như Kerry Logistics, DHL, CJ Logistics và SK Logistics, tiếp theo là các công ty thương mại điện tử như Lazada Thái Lan, Shopee, 11Street và JIB và các công ty khác.

Các công ty thương mại điện tử lớn ở Thái Lan bao gồm Lazada Thái Lan, Shopee, 11Street và JIB đã thiết lập được các kênh phân phối rất tốt tại Thái Lan.

Phân khúc nội địa trong thị trường logistics thương mại điện tử Thái Lan đã đang dẫn đầu thị trường với thị phần lớn về số lượng đơn đặt hàng.

Thị trường logistics thương mại điện tử ở Thái Lan có tính tập trung cao với thị phần chủ yếu thuộc về các công ty lớn như Kerry Logistics, DHL, CJ Express, SK Logistics, Shippop, aC Commerce, FedEx, TNT và những người khác trong năm 2017. Thương mại điện tử các công ty logistics có đội tàu/xe của riêng họ hoặc có nhân viên đóng vai trò là chủ hàng hoặc thuê ngoài khía cạnh giao hàng cho bên thứ ba.

2.3. Malaysia:

Theo bảng xếp hạng Chỉ số Hiệu suất Logistics của Ngân hàng Thế giới (LPI), năm 2016, Malaysia có điểm LPI cao nhất sau Singapore ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, Thái Lan và Việt Nam đã vượt qua Malaysia trong bảng xếp hạng LPI năm 2018. Theo đó, xếp hạng LPI của Malaysia trong số 160 quốc gia trên thế giới đã giảm xuống vị trí thứ 41 năm 2018 từ vị trí thứ 32 năm 2016.

Cùng với cam kết của Thủ tướng Malaysia Mahathir Bin Mohamad xem xét các dự án cơ sở hạ tầng giao thông hiện tại và được đề xuất sau khi đắc cử, vào tháng 9 năm 2018, chính phủ Malaysia đã quyết định hủy bỏ các dự án hai cơ sở hạ tầng, trị giá khoảng 22 tỷ USD.

Chính phủ đã viện dẫn các vấn đề tài chính là lý do đằng sau sự kiện này khi nước này đang cố gắng giảm nợ quốc gia, được cho là khoảng 250 tỷ USD. Trong khi đó, hai phát triển lớn mang đến cơ hội tăng trưởng thương mại và vận tải hàng hóa là các thỏa thuận lớn được thiết lập để phê chuẩn và có hiệu lực trong năm 2019; Hiệp định toàn diện và tiến bộ về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương và quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực.

Thị trường các sản phẩm Halal đang phát triển nhanh chóng và được công nhận là một thị trường mới nổi cực kỳ quan trọng.

Malaysia có tầm nhìn trở thành nhà cung cấp các sản phẩm Halal hàng đầu thế giới. Truy xuất nguồn gốc thực phẩm là một trong những ứng dụng quan trọng nhất của blockchain. Trong đó, có lẽ thực phẩm halal là thứ mà người tiêu dùng mong muốn truy xuất nguồn gốc nhiều nhất.

Gần 2 tỷ người tiêu dùng theo đạo Hồi muốn biết liệu thực phẩm của họ có được chế biến theo cách cho phép trong luật Hồi giáo hay không.

Tháng 4/2019, Ismus Venture, một nhà tạo xu hướng thị trường và là nhà lãnh đạo toàn cầu về giải pháp dịch vụ Halal, Trung tâm Halal quốc tế Penang (PIHH), một cơ quan của Chính phủ bang Penang, A-Transglobal Logistics, một công ty logistics halal được chứng nhận, và TE-FOOD International đã ký thỏa thuận hợp tác ba bên để thiết lập và cung cấp các giải pháp truy xuất nguồn gốc cho ngành công nghiệp thực phẩm halal sử dụng công nghệ blockchain..

Hành trình nông sản đi từ trang trại đến kệ của cửa hàng tạp hóa gồm nhiều bước và mỗi bước phải được theo dõi và xác minh để tuân thủ các quy định về Halal. Nếu tính toàn vẹn của quy tắc halal không thành công trong bất kỳ bước nào, sản phẩm không thể được coi là halal.

Một hệ thống truy xuất nguồn gốc dựa trên blockchain như TE-FOOD có thể cung cấp các công cụ để đảm bảo người tiêu dùng rằng sản phẩm an toàn, nhưng việc theo dõi liên tục từ một công ty tư vấn chứng nhận halal như Isishima Venture là cần thiết để thực hiện đúng. Sự hợp tác giữa Liên doanh Isishima và TE-FOOD kết hợp chuyên môn thực phẩm halal với kinh nghiệm truy xuất nguồn gốc thực phẩm dựa trên blockchain.

PIHH: Chính quyền bang Penang đã khởi xướng phát triển Trung tâm Halal quốc tế Penang để phục vụ nhu cầu tiêu dùng toàn cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm, dịch vụ và giải pháp Halal.

Liên doanh Isishima: Liên doanh Isishima, được thành lập tại Malaysia vào năm 2013, cung cấp các giải pháp cho các sáng kiến halal để thực hiện các giá trị của tính toàn vẹn Halal trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thông qua đào tạo và tạo điều kiện cho chương trình chứng nhận halal.

A-Transglobal Logistics: Công ty được thành lập tại Malaysia, là nhà cung cấp dịch vụ trong ngành logistic và tàu với mục đích hỗ trợ khu vực chính phủ và tư nhân cho các sản phẩm và dịch vụ liên quan về logistics và tàu.

TE-FOOD là giải pháp truy xuất nguồn gốc thực phẩm từ nông trại đến bàn ăn lớn nhất thế giới. Bắt đầu vào năm 2016, phục vụ hơn 6000 khách hàng doanh nghiệp và xử lý 400.000 giao dịch kinh doanh mỗi ngày

An toàn và đảm bảo chất lượng là lý do cho các sản phẩm halal được công nhận rộng rãi. Thị trường chính cho các sản phẩm halal ở châu Á và Trung Đông đang tạo ra cơ hội lớn cho cho các công ty Malaysia để sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm được chứng nhận halal ra thị trường toàn cầu, với vai trò là một cửa ngõ giữa hai khu vực và thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.

Do những tiêu chuẩn riêng cho các sản phẩm Halal, logistics phục vụ riêng cho lĩnh vực này được dự báo sẽ ngày càng chuyên nghiệp hơn.

2.4. Philippines

Theo Hiệp hội Vận tải và Vận tải Đa phương thức của Philippines, Chính phủ nước này đã xác định logistics là một lĩnh vực tạo việc làm quan trọng, với 7,5 triệu việc làm và chiếm 5% tổng số việc làm tại đây vào năm 2022.

Để đạt được mục tiêu và cho phép ngành logistics đóng vai trò là kết nối các ngành sản xuất, nông nghiệp và dịch vụ, các bên liên quan trong ngành logistics và Chính phủ đã đưa ra 10 cam kết. Trong số đó có việc ưu tiên các sáng kiến cho lĩnh vực logistics có năng lực cạnh tranh toàn cầu, cung cấp dịch vụ cho khách hàng với sản phẩm phù hợp vào đúng thời điểm, giá cả và chất lượng, và một cách đáng tin cậy.

Ngành logistics và chính phủ cũng sẽ phối hợp để loại bỏ tham nhũng thông qua tự động hóa, hợp lý hóa và phân cấp phát hành giấy phép, và các yêu cầu báo cáo giữa các cơ quan chính phủ.

Tương tự như vậy, sẽ có một nền tảng đối thoại giữa chính phủ và các doanh nghiệp trong ngành để thảo luận về các chính sách và quy định nhằm thúc đẩy một lĩnh vực logistics cạnh tranh toàn cầu.

Các bên cũng sẽ khuyến khích và phát triển các cam kết đầu tư của chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics và cam kết tìm giải pháp lâu dài cho các vấn đề ảnh hưởng đến lĩnh vực logistics.

Các bên cũng đã cam kết áp dụng các tiêu chuẩn cao về thực hành quy định, thúc đẩy chia sẻ kiến thức và điểm chuẩn, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này và phát triển lực lượng lao động sẵn sàng trong tương lai.

Chi phí logistics tại Philippines chiếm 27,16% tổng doanh thu của các công ty.

Dựa trên thành tích năm 2018 trong bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả logistics toàn cầu (LPI) do Ngân hàng thế giới tính toán và công bố, Philippines đã giành vị trí thứ 60 trong số 160 quốc gia. Bảng xếp hạng của Philippines về mặt Hải quan đứng ở vị trí thứ 85; cơ sở hạ tầng, vị trí thứ 67; lô hàng quốc tế vị trí thứ 37; chất lượng và năng lực logistics, vị trí thứ 69; theo dõi và truy tìm, thứ 57; và kịp thời, thứ 100.

Philippines đang tập trung vào việc cải thiện quan hệ thương mại với các quốc gia khác, qua đó tác động tích cực đến khối lượng xuất nhập khẩu trong và ngoài nước. Điều này sẽ dẫn đến nhu cầu về vận tải và kho bãi ngày càng tăng ở các khu vực khác nhau ở Philippines.

Để có thể đương đầu với những thách thức như năng suất thấp, chi phí theo quy mô, các doanh nghiệp tại nước này đang lên kế hoạch cho sự phân cấp, thuê ngoài, tự động hóa và tích hợp hệ thống trong logistics.

Các kho hàng được đặt gần khách hàng hơn để các công ty có thể đưa ra quyết định nhanh chóng một khi sẽ có sự thay đổi, dựa trên các điều kiện thị trường địa phương và nhu cầu phân phối cho kho.

Thị trường dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL) của Philippines đang phát triển ngày càng sôi động.

Một số dịch vụ quan trọng được cung cấp bởi các nhà cung cấp 3PL ở Philippines bao gồm nhập kho, giao nhận hàng hóa, môi giới hải quan, dán nhãn và đóng gói sản phẩm, quản lý hàng tồn kho và quản lý đội tàu.

Nhu cầu về dịch vụ 3PL (Logistics của bên thứ ba) đang gia tăng ở Philippines do nhu cầu ngày càng tăng để xử lý khối lượng giao hàng và kho bãi tăng lên, do thương mại điện tử bùng nổ., chi phí logistics chiếm 24% đến 53% giá bán buôn. Một trong những yếu tố khiến Philippines có chi phí logistics cao nhất trong số các thành viên của Hiệp hội các nước khu vực Đông Nam Á (ASEAN) là do nước này là quần đảo, khó khăn trong việc đi lại giữa các hòn đảo. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng lâu đời chưa được nâng cấp đồng bộ và một số tập quán cũng như thủ tục phức tạp trong luân chuyển hàng hóa cũng khiến chi phí logistics của nước này tăng cao.

Các công ty chuyển phát nhanh trong nước có sự hiện diện mạnh mẽ hơn ở một số thành phố trên toàn quốc trong khi đó, các công ty chuyển phát nhanh quốc tế thống trị thị trường chuyển phát nhanh Philippines.

Ngành công nghiệp logistics thương mại điện tử của Philippines được quan sát là tập trung cao độ với sự hiện diện của các công ty lớn như Lazada, LBC Express, DHL và Shopee chiếm khoảng phần lớn thị phần. Các công ty này đang cạnh tranh các thông số như điểm vận chuyển, vùng phủ sóng, hỗ trợ giao hàng (dặm cuối) và phương tiện thu thanh toán.

Ngành công nghiệp thương mại điện tử phát triển đã tạo cơ hội cho những công ty logistics mở rộng kinh doanh trên toàn quốc và sẽ tăng cường hơn nữa nhu cầu về logistics trong những năm tới. Các công ty logistics và kho bãi hoạt động tại Philippines dự kiến sẽ đầu tư vào các giải pháp công nghệ tiên tiến, các thiết bị giao hàng không người lái, theo dõi thời gian thực, tự động hóa và robot để cải thiện dịch vụ.

Philippines chứng kiến sự thay đổi liên tục trong thói quen của người tiêu dùng, theo đó họ đang chuyển sang mua sản phẩm tươi và đông lạnh từ các siêu thị thay vì các chợ ướt truyền thống. Bên cạnh nhu cầu nội bộ, nhu cầu bên ngoài cũng đang thúc đẩy sự bùng nổ trong các cơ sở lưu trữ chuỗi lạnh và logistics. Xuất khẩu nông sản Philippines đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Kim ngạch các sản phẩm dựa trên nông nghiệp lên tới trên một tỷ USD, đứng vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước này.

Ngoài ra, sự phát triển của hàng tạp hóa và thương mại điện tử trực tuyến đã thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở lưu trữ lạnh và hỗ trợ cơ sở hạ tầng. Dự án Chuỗi lạnh Philippines (PCCP) do Hoa Kỳ hỗ trợ cũng dự kiến sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ sở logistics chuỗi lạnh của quốc gia Đông Nam.

Dự án nhằm mục đích tăng sản xuất nông nghiệp, đáp ứng các yêu cầu an toàn thực phẩm quốc tế bằng cách phát triển các thị trường liên quan đến chuỗi lạnh và các công nghệ cải tiến. Ngoài ra, các sản phẩm nông nghiệp của nước này có được sự thúc đẩy, với việc Trung Quốc ký thỏa thuận nhập khẩu 1 tỷ USD. Các khoản đầu tư cho thấy sự cần thiết của một môi trường được kiểm soát nhiệt độ để tích hợp chuỗi cung ứng và tạo ra giá trị gia tăng cho khách hàng.

Mua sắm trực tuyến sẽ làm tăng quy mô của ngành thương mại điện tử trong nước. Các công ty từ lĩnh vực bán lẻ, FMCG, ngành dược phẩm, hàng may mặc và các phụ kiện khác được dự đoán sẽ chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong dịch vụ logistics. Các công ty thương mại điện tử sẽ làm thay đổi cấu trúc và tạo ra những xu hướng mới trên thị trường kho bãi để lưu trữ các sản phẩm được kinh doanh trực tuyến.

Ngành công nghiệp kho bãi Philippines rất phân tán với sự sẵn có của một số lượng lớn các công ty kho bãi với các quy mô khác nhau trải rộng trên cả nước. Thị trường bao gồm cả những những người cung cấp dịch vụ nhỏ lẻ, tự phát và các công ty cung cấp dịch vụ logistics bên thứ 3 chuyên nghiệp. Các công ty trong nước đang cạnh tranh với nhau trên cơ sở quy mô và vị trí của kho.

Công nghệ logistics tiên tiến được phát triển bởi 3PLs giúp các doanh nghiệp thúc đẩy hiệu quả chuỗi cung ứng, tiết kiệm chi phí và khả năng hiển thị. Các công ty có thể mua phần mềm sẵn có hoặc phát triển một giải pháp riêng biệt để đáp ứng nhu cầu chính xác của họ hoặc có tất cả các hệ thống đã có và đã sử dụng của họ được tích hợp vào hệ thống quản lý logistics chung.

2.5. Indonesia

Là quốc gia đông dân thứ tư thế giới với tiềm năng phát triển lớn, Indonesia là thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động logistics. Quần đảo gồm khoảng 17.500 hòn đảo hiện là một trung tâm thu hút đầu tư toàn cầu. Sự phát triển của lĩnh vực sản xuất tại Indonesia có thể kích thích tăng trưởng kinh tế cao về mặt cấu trúc trong một thời gian dài. Một ngành công nghiệp sản xuất hưng thịnh và xu hướng gia tăng xuất khẩu các sản phẩm sản xuất trong nước sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng trong lĩnh vực logistics. Sản xuất của Indonesia bao gồm đa dạng các sản phẩm từ điện tử, hóa chất, ô tô đến công nghiệp thực phẩm.

Tuy nhiên, logistics là một nút thắt quan trọng trong hoạt động kinh doanh tại Indonesia. Chi phí logistics dao động từ 25% -30% GDP ở Indonesia, so với các nền kinh tế phát triển, nơi nó dưới 5% GDP. Ngay cả các nước láng giềng, như Malaysia cũng có chi phí logistics thấp hơn.

Ngành vận tải hàng hóa và logistics của Indonesia không có mức độ tập trung cao trong ngành, đặc biệt là đối với các công ty quốc tế. Các DN logistics quốc tế hiện chỉ chiếm khoảng 30% thị phần. 70% còn lại được chia sẻ giữa các nhà cung cấp dịch vụ logistics của Indonesia. Trong 70% đó, mức độ tập trung ở mức trung bình và thậm chí 10 công ty lớn nhất cũng không chiếm hơn 30% thị trường địa phương. Các công ty lớn tập trung nhiều hơn vào vận tải hàng hóa và cơ sở hạ tầng logistics.

2.6. Myanmar

Nếu xét theo bảng xếp hạng chỉ số LPI vủa Ngân hàng thế giới thì Myanmar có ngành logistics kém phát triển nhất ASEAN, đứng thứ 10 trong ASEAN và thứ 137 trên thế giới.

Theo báo cáo của hãng nghiên cứu thị trường nổi tiếng Mordor Intelligence, thị trường vận tải và logistics của Myanmar được ước tính trị giá hơn 4 tỷ USD và dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ hơn 7,5%/năm trong giai đoạn 2019-2024.

Ngành logistics Myanmar đang trong quá trình chuyển đổi, được thúc đẩy bởi hoạt động thương mại ngày càng tăng, cải thiện kết nối và gia nhập của các công ty quốc tế lớn.

Vị trí địa lý chiến lược là một yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư vào lĩnh vực logistics Myanmar. Nước này có vị trí đặc biệt trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, kết nối hai nền kinh tế lớn của Trung Quốc và Ấn Độ, như một cây cầu lục địa kết nối các khu vực Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á.

Hầu hết những công ty logistics là công ty trong nước, hơn ba phần tư trong số họ tham gia cung cấp các dịch vụ chung, như dỡ hàng, bốc hàng, làm thủ tục hải quan và dịch vụ giao nhận, trong khi các công ty còn lại cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng, như dán nhãn , theo dõi lô hàng, và kho lạnh. Khi nhu cầu về các dịch vụ này ngày càng tăng, ngày càng có nhiều công ty bổ sung các loại dịch vụ này vào danh mục đầu tư kinh doanh hiện tại của họ.

Tuy nhiên, hạn chế cơ sở hạ tầng giao thông đã cản trở sự tăng trưởng của ngành logistics trong nước trong nhiều năm.

Một số chủ hàng ưu tiên thương mại đường bộ xuyên biên giới, thay vì đường biển hoặc đường hàng không. Vận tải đường bộ xuyên biên giới được các chủ doanh nghiệp Myanmar ưa thích hơn khi giao dịch với các nước trong khu vực như Trung Quốc và Thái Lan. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Myanmar hiện nay.

Giao nhận, vận tải hàng hóa quốc tế ngày càng sôi động hơn và trở thành một nhu cầu quan trọng đối với Myanmar trong quá trình cải cách đất nước. Một số quốc gia mà Myanmar giao dịch nhiều nhất, được kết nối trực tiếp với bằng đường bộ; Trung Quốc là một ví dụ về điều này. Bởi vì hành lang sản xuất ở Myanmar được cố định dọc theo tuyến đường Yangon Mandalay, với một số nhánh dọc theo sông Ayerawaddy - thương mại quốc tế với các quốc gia khác còn rất hạn chế, ngoại trừ Trung Quốc, Thái Lan và Singapore.

Nhưng cấu trúc của thị trường logistics dự kiến sẽ thay đổi, khi có nhiều đổi mới trong cơ sở hạ tầng, luật đầu tư, tăng trưởng kinh tế dẫn đến mức tiêu thụ cao, và do đó, nhu cầu về dịch vụ giao nhận hàng hóa nhập khẩu.

Có khoảng 4.000 công ty logistics tại Myanmar trong đó có hơn 830 công ty vận tải và hơn 880 công ty giao nhận vận tải nội địa.

Hoạt động logistics tập trung nhiều ở các đô thị như Yangon, Mandalay, Sittwe, Lashio, Muse và Myawaddy.

Thị trường logistics vẫn chưa phát triển và các nhà vận tải cỡ trung đang hoạt động chủ yếu trên các hành lang chính. Thị trường rất phân mảnh. Vì hệ thống bảo hiểm hàng hóa còn khá non trẻ ở Myanmar, rất nhiều thương nhân vận chuyển hàng hóa bằng xe tải thuộc sở hữu của họ; do đó, rất khó cho các công ty chuyên về một phương thức vận tải. Do đó, có thể trong tương lai gần, một số công ty vận tải giao nhận sẽ sáp nhập để tăng năng lực cạnh tranh, và do đó các chủ hàng sẽ được hưởng các dịch vụ trọn gói hơn.

Các công ty kho bãi đang tập trung gia tăng vào việc phát triển các cơ sở lưu trữ lạnh và xin giấy phép xây dựng các trạm vận chuyển hàng hóa container và kho ngoại quan.

2.7. Campuchia

Trong bảng xếp hạng chỉ số Hiệu suất Logistics của Ngân hàng Thế giới về hiệu suất logistics thương mại năm 2018, Campuchia xếp thứ 98, kém xa các thị trường thương mại điện tử phát triển hơn bao gồm Singapore (7), Thái Lan (32), Việt Nam (39), Malaysia (41), Indonesia (46), Philippines (60), Brunei (80), Lào (82). Như vậy trong ASEAN, Campuchia xếp thứ 9, sau Lào, còn Myanmar xếp thứ 10 với vị trí trên bảng xếp hạng LPI của thế giới là 137.

Campuchia còn thiếu nguồn nhân lực sẵn có và kỹ năng về logistics trong thương mại điện tử, điều này cản trở sự tăng trưởng của ngành trong thời gian dài.

Khu vực tư nhân có nhiều tiềm năng để phát triển lĩnh vực này, nhưng nhà nước cần có nguồn lực phù hợp để hỗ trợ các doanh nhân địa phương khai thác thị trường thương mại điện tử khu vực và toàn cầu.Chẳng hạn, DHL Express Campuchia hợp tác với cổng thanh toán ASEAN iPay88 để tổ chức các hội thảo thương mại điện tử chia sẻ những lời khuyên thiết thực về cách các doanh nghiệp vừa và nhỏ thương mại điện tử có thể mở rộng ra thị trường quốc tế. Các hội thảo quy mô nhỏ hơn cũng được tổ chức để cung cấp các mô-đun đào tạo về các chủ đề như quy định tùy chỉnh đích và tiếp thị kỹ thuật số.

Để cải thiện năng lực cạnh tranh của xuất khẩu nói riêng và của nền kinh tế nói chung, Campuchia cần có nhiều cải cách đột phá để giảm chi phí logistics cao bên ngoài hiệu suất và khả năng cạnh tranh của công ty. Chi phí logistics hiện ở mức rất cao, một phần do thị trường còn ở giai đoạn phát triển thấp, nhiều hoạt động chưa được minh bạch hóa.

2.8. Lào

Lào đứng thứ 82 trong bảng xếp hạng chỉ số LPI của Ngân hàng thế giới năm 2018.

Với dân số chỉ hơn 6,5 triệu, ngành logistics tại quốc gia này kém phát triển, khi so sánh với các quốc gia khác trong khu vực. Cơ sở hạ tầng logistics còn yếu trong nước, dẫn đến chi phí logistics cao. Ví dụ, theo các nguồn công nghiệp, hơn 30% chi phí kinh doanh trong bán lẻ và cung cấp nhiên liệu động cơ ở Lào có liên quan đến logistics.

Đóng góp của ngành vận tải và kho bãi trong nước được ước tính là khoảng 5% GDP, thấp hơn tỷ lệ trung bình các nước đang phát triển là 8%. Điều này có thể do mức độ tham gia thấp của các công ty Lào trong vận tải quốc tế và mức độ cao của việc làm phi chính thức trong ngành vận tải Lào.

Chính phủ Lào đã phân bổ một ngân sách để phát triển và cải thiện các cơ sở hạ tầng để liên kết với các nước láng giềng. Nước này đã ký các hiệp định thương mại song phương với các nước láng giềng, bao gồm Campuchia, Việt Nam và Thái Lan.

Ngoài ra, để thúc đẩy hoạt động thương mại, Lào cũng đã ký các hiệp định đa phương, như Lào-Việt Nam-Thái Lan, Lào-Việt Nam-Campuchia, Hiệp định vận tải xuyên biên giới Đại sông Mê Kông (GMS CBTA), và Hiệp định khung ASEAN.

Lào này nằm ở vị trí địa lý chiến lược giáp với các nước lớn của Trung Quốc, Thái Lan cùng với Việt Nam, Myanmar và Campuchia. Hơn nữa, sông Mê Kông chảy trên cả nước mang đến một cơ hội lớn để giảm chi phí logistics.Nền kinh tế Lào đang được dự báo chủ yếu được thúc đẩy bởi lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử và ngành điện. Ngành du lịch cũng có tiềm năng tăng trưởng do khách du lịch từ các quốc gia ngoài ASEAN. Một số dự án đầu tư vào thủy điện và giao thông, bao gồm cả tuyến đường sắt từ Trung Quốc đến thủ đô, Viêng Chăn đã được triển khai vào năm 2018.

Việc xây dựng tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào, một trong những dự án hợp tác quan trọng giữa hai bên, đang được triển khai và tuyến sẽ đi vào hoạt động vào cuối tháng 12 năm 2021, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy vận chuyển hàng hóa và du lịch của nước này.

Vận tải đường bộ chiếm tỷ trọng vượt trội trong vận tải hàng hóa trong nước do nước này không có đường biển. Hơn 80% lưu lượng vận chuyển hàng hóa (tấn-km) được vận chuyển bằng đường bộ. Trong tổng số chiều dài đường trong cả nước, hơn 90% trong số đó là không trải nhựa.

Về kết nối khu vực, nhiều tuyến đường quốc gia ở Lào đã được nâng cấp và liên kết với mạng lưới đường bộ ở các nước láng giềng.

Lào có gần 20 liên kết xuyên biên giới với các nước láng giềng (9 giữa Lào-Việt Nam, 8 giữa Lào-Thái Lan, 2 giữa Lào-Trung Quốc và 1 giữa Lào-Campuchia). Thái Lan là đối tác thương mại lớn trong khu vực Intra-ASEAN cho Lào, trong khi đó, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn trong khu vực ngoài ASEAN.

Các dịch vụ đường sắt ở Lào gần như không tồn tại. Đất nước này chỉ có một đoạn ngắn của tuyến đường sắt dài 3,5 km từ Thanaleng đến Nongkhai (Thái Lan). Đường sắt cung cấp một phương thức vận chuyển hàng hóa rẻ hơn. Theo các nguồn công nghiệp, việc vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt có thể giảm chi phí từ 30% đến 50%, khi so sánh với chi phí vận chuyển đường bộ.

Lào đã trở thành một trong những ưu tiên trong Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của chính phủ Trung Quốc, nhằm tăng cường kết nối và quan hệ kinh tế và chính trị của Trung Quốc với hơn 60 quốc gia ở Châu Á, Châu Phi và Trung Đông, chủ yếu thông qua các dự án cơ sở hạ tầng. Một trong những dự án quan trọng của BRI là tuyến đường sắt nối Côn Minh, ở miền nam Trung Quốc, đến Singapore, chạy qua Lào, Thái Lan và Malaysia. Tại Lào, dự án trải dài từ Boten, ở biên giới Lào-Trung Quốc, đến Viêng Chăn, thủ đô của Lào và một thành phố giáp ranh với Thái Lan.

Nguồn: BỘ CÔNG THƯƠNG - TRUNG TÂM THÔNG TIN CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
 

Tìm thành viên

Top